Scholar Hub/Chủ đề/#can thiệp dinh dưỡng/
Thiệp dinh dưỡng hay còn gọi là can thiệp dinh dưỡng là việc tác động và điều chỉnh chế độ ăn uống của một cá nhân để cải thiện sức khỏe và ngăn ngừa bệnh tật. ...
Thiệp dinh dưỡng hay còn gọi là can thiệp dinh dưỡng là việc tác động và điều chỉnh chế độ ăn uống của một cá nhân để cải thiện sức khỏe và ngăn ngừa bệnh tật. Can thiệp dinh dưỡng có thể bao gồm việc tăng cường hoặc giảm khẩu phần ăn, điều chỉnh tỷ lệ các chất dinh dưỡng, hay bổ sung thêm các loại thực phẩm bổ sung/vitamin/mineral vào chế độ ăn hàng ngày. Mục tiêu của can thiệp dinh dưỡng là cung cấp đủ chất dinh dưỡng cần thiết cho cơ thể, duy trì cân nặng và chức năng cơ thể tốt, và giảm nguy cơ mắc các bệnh liên quan đến chế độ ăn uống không lành mạnh.
Can thiệp dinh dưỡng có thể được thực hiện bởi bác sĩ, nhà dinh dưỡng, hoặc chuyên gia dinh dưỡng. Quá trình can thiệp dinh dưỡng thường bắt đầu bằng việc đánh giá tình trạng dinh dưỡng hiện tại của cá nhân, bao gồm cân nặng, chiều cao, chỉ số khối cơ thể (BMI), và các chỉ số khác như cholesterol, đường huyết, huyết áp.
Sau đó, dựa trên thông tin đánh giá, mục tiêu và nhu cầu dinh dưỡng của cá nhân sẽ được đặt ra. Can thiệp dinh dưỡng có thể gồm các phương pháp sau:
1. Điều chỉnh chế độ ăn uống: Bác sĩ hoặc chuyên gia dinh dưỡng sẽ tư vấn và chỉ dẫn cá nhân thay đổi khẩu phần ăn hàng ngày. Điều này có thể bao gồm việc tăng cường hoặc giảm khẩu phần ăn, điều chỉnh tỷ lệ các chất dinh dưỡng trong chế độ ăn, như carbohydrate, protein, chất béo, vitamin và khoáng chất.
2. Bổ sung dinh dưỡng: Nếu cần thiết, bác sĩ có thể đề xuất bổ sung các loại thực phẩm bổ sung, vitamin hoặc khoáng chất. Ví dụ, bổ sung canxi cho người có rối loạn về xương, bổ sung sắt cho người thiếu máu, bổ sung vitamin D cho người thiếu ánh sáng mặt trời.
3. Giáo dục và hướng dẫn: Can thiệp dinh dưỡng cũng liên quan đến việc cung cấp thông tin và hướng dẫn về dinh dưỡng cho cá nhân. Người ta có thể hướng dẫn về việc lựa chọn thực phẩm, phương pháp nấu ăn, công thức chế biến, và cách làm một lịch trình ăn uống hợp lý.
4. Theo dõi và đánh giá: Sau khi can thiệp dinh dưỡng đã được thực hiện, quá trình theo dõi và đánh giá sẽ thường xuyên được tiến hành để xem xét hiệu quả và điều chỉnh theo yêu cầu. Đánh giá có thể bao gồm theo dõi cân nặng, sự thay đổi trong các chỉ số huyết áp, cholesterol, mức đường huyết và các chỉ số dinh dưỡng khác.
Can thiệp dinh dưỡng có thể hữu ích trong nhiều tình huống, bao gồm giúp người tăng cân, giảm cân, hỗ trợ điều trị bệnh tật như bệnh tim mạch, bệnh tiểu đường, bệnh kiểm soát trong thai kỳ, bệnh tự miễn dịch, và phục hồi sau khi phẫu thuật.
Giảm tỷ lệ thai chết lưu: can thiệp về hành vi và dinh dưỡng trước và trong thai kỳ Dịch bởi AI Springer Science and Business Media LLC - - 2009
Tóm tắtĐặt bối cảnhPhần lớn các trường hợp thai chết lưu toàn cầu xảy ra ở các quốc gia có thu nhập thấp và trung bình, và ở nhiều bối cảnh, phần lớn các trường hợp thai chết lưu xảy ra trước sinh, trước khi bắt đầu chuyển dạ. Tình trạng dinh dưỡng kém, thiếu chăm sóc trước sinh và một số hành vi gia tăng nguy cơ thai chết lưu ở nhiều nơi thiếu nguồn lực. Các can thiệp để giảm các rủi ro này có thể làm giảm gánh nặng từ các trường hợp thai chết lưu, nhưng bằng chứng về tác động của các can thiệp này vẫn chưa được đánh giá một cách toàn diện.
Phương phápBài báo thứ hai của một tổng quan có hệ thống về các can thiệp có khả năng ảnh hưởng đến tỷ lệ thai chết lưu này đề cập đến 12 can thiệp khác nhau liên quan đến các yếu tố rủi ro do hành vi và xã hội tác động, bao gồm phơi nhiễm với các thực hành và chất độc hại, việc sử dụng và chất lượng chăm sóc trước sinh, và dinh dưỡng của mẹ trước và trong thai kỳ. Chiến lược tìm kiếm đã xem xét các tạp chí y học đã được lập chỉ mục trên PubMed và Thư viện Cochrane. Nếu có bất kỳ thử nghiệm ngẫu nhiên có đối chứng nào đủ điều kiện được nhận diện và được công bố sau tổng quan Cochrane gần đây nhất, chúng đã được thêm vào để tạo ra các phân tích tổng hợp mới. Các can thiệp được đề cập trong bài báo này tập trung vào các quốc gia có thu nhập thấp và trung bình, cả vì gánh nặng lớn của thai chết lưu và vì tỷ lệ cao các yếu tố rủi ro như suy dinh dưỡng ở mẹ và phơi nhiễm với môi trường độc hại ở những quốc gia này. Các tổng quan và nghiên cứu liên quan đến các can thiệp này đã được đánh giá và rút ra kết luận về bằng chứng cho lợi ích của những can thiệp này.
Kết quảTừ góc độ chương trình, không có can thiệp nào đạt được bằng chứng rõ ràng về lợi ích. Bằng chứng cho một số yếu tố rủi ro do xã hội tác động đã được xác định, chẳng hạn như phơi nhiễm với ô nhiễm không khí trong nhà và khoảng cách giữa các lần sinh, nhưng vẫn cần phát triển các can thiệp phù hợp. Cần có thêm nghiên cứu về các can thiệp hành vi phù hợp với văn hóa và các thử nghiệm lâm sàng để tăng cường việc ngừng thuốc lá và giảm phơi nhiễm với thuốc lá không khói. Bổ sung protein- năng lượng cân bằng liên quan đến tỷ lệ thai chết lưu thấp hơn, nhưng cần có các thử nghiệm lớn được thiết kế tốt hơn để xác nhận phát hiện này. Việc bổ sung axit folic quanh thời điểm thụ thai làm giảm đáng kể các khuyết tật ống thần kinh, nhưng chưa có sự giảm đáng kể nào trong tỷ lệ thai chết lưu được ghi nhận. Bằng chứng về các can thiệp dinh dưỡng khác, bao gồm nhiều vi chất dinh dưỡng và bổ sung Vitamin A còn yếu, cho thấy sự cần thiết phải nghiên cứu thêm để đánh giá tiềm năng của các can thiệp dinh dưỡng trong việc giảm thiểu thai chết lưu.
Kết luậnChăm sóc trước sinh được sử dụng rộng rãi ở các quốc gia có thu nhập thấp và trung bình, và cung cấp một cơ hội tiếp xúc tại cơ sở y tế tự nhiên để cung cấp hoặc giáo dục về nhiều can thiệp mà chúng tôi đã xem xét. Tác động của các hành vi xã hội rộng hơn, chẳng hạn như quyết định sinh sản, tiếp cận chăm sóc trước sinh, chế độ ăn uống của mẹ và các yếu tố phơi nhiễm như thuốc lá và ô nhiễm không khí trong nhà trong thai kỳ vẫn chưa được hiểu rõ, và cần có nghiên cứu thêm và các can thiệp phù hợp để kiểm tra mối liên hệ giữa các hành vi này với kết quả thai chết lưu. Đối với hầu hết các can thiệp dinh dưỡng, cần có các thử nghiệm ngẫu nhiên có đối chứng lớn hơn báo cáo các trường hợp thai chết lưu tách biệt với tử vong chu sinh tổng hợp. Nhiều trường hợp thai chết lưu trước khi sinh có thể ngăn ngừa ở các quốc gia có thu nhập thấp và trung bình, đặc biệt thông qua cải thiện chế độ ăn uống và môi trường, và thông qua việc nâng cao chất lượng chăm sóc trước sinh - đặc biệt bao gồm chẩn đoán và quản lý các thai kỳ có nguy cơ cao - mà các phụ nữ mang thai nhận được.
Can thiết cho người cao tuổi yếu đuối Dịch bởi AI Current Geriatrics Reports - - 2020
Tóm tắt
Mục đích của Đánh giá
Các yếu tố gây suy yếu được đặc trưng bởi sự giảm dự trữ sinh lý và tăng nguy cơ té ngã, tàn tật, nhập viện và tử vong. Những người cao tuổi yếu đuối có thể được hưởng lợi từ các can thiệp tập thể dục nhằm giải quyết các vấn đề và khuyết tật chức năng của họ; tuy nhiên, phần lớn các nghiên cứu tập trung vào các can thiệp tại trung tâm, điều này có thể gây khó khăn trong việc tiếp cận cho những người cao tuổi yếu đuối. Do đó, mục đích của bài đánh giá này là tóm tắt những can thiệp tập thể dục tại nhà gần đây nhất dành cho những người cao tuổi yếu sống tại nhà.
Kết quả gần đây
Tám tài liệu đáp ứng tiêu chí bao gồm. Các can thiệp nghiên cứu gồm nhiều hình thức khác nhau (sức mạnh, sức mạnh/dinh dưỡng, sức mạnh/linh hoạt/cân bằng/độ bền), thời gian (từ 12 tuần đến 6 tháng), tần suất (2–7 ngày/tuần), và phương pháp thực hiện (do tình nguyện viên dẫn dắt, video trên máy tính bảng, sách hướng dẫn/brochure). Các nhà nghiên cứu đã xem xét tác động của tập thể dục tại nhà đối với nhiều kết quả, bao gồm tính khả thi, tình trạng yếu đuối, hiệu suất thể chất, khối lượng cơ thể gầy, khối lượng cơ xương, các kết quả sinh lý khác, sức khỏe tâm thần, tình trạng dinh dưỡng, và tỷ lệ té ngã ở những người yếu đuối.
#tập thể dục tại nhà #người cao tuổi yếu #can thiệp tập thể dục #sức khỏe tâm thần #tình trạng dinh dưỡng
CAN THIỆP DINH DƯỠNG CHO PHỤ NỮ CÓ THAI VÀ TRẺ EMVới mục đích cải thiện tình trạng dinh dưỡng cho phụ nữ có thai và trẻ em, giảm suydinh dưỡng thấp còi góp phần nâng cao tầm vóc của người Việt Nam, Hội Dinh dưỡngViệt Nam phối hợp với Hội Dinh dưỡng Thực phẩm TPHCM và Bệnh viện đa khoaquốc tế Nam Sài gòn tổ chức Hội nghị Dinh dưỡng mở rộng lần thứ IX với chủ đề “Canthiệp dinh dưỡng cho phụ nữ có thai và trẻ em”.
THAY ĐỔI TÌNH TRẠNG DINH DƯỠNG SAU CAN THIỆP TRÊN BỆNH NHÂN UNG THƯ LƯỠI, SÀN MIỆNGMục tiêu: Đánh giá hiệu quả can thiệp dinh dưỡng của các bệnh nhân ung thư khoang miệng qua chỉ số nhân trắc và các triệu chứng lâm sàng. Phương pháp nghiên cứu: Nghiên cứu can thiệp trên 34 bệnh nhân ung thư lưỡi và sàn miệng trong vòng 2 tháng từ thời điểm phẫu thuật và theo dõi tình trạng dinh dưỡng, các triệu chứng lâm sàng qua các mốc thời gian. Kết quả: Sau can thiệp nguy cơ suy dinh dưỡng của bệnh nhân giảm đáng kể từ 73% còn 52,94%, cân nặng có sự cải thiện, nhiều triệu chứng liên quan tới tiêu hóa cũng được đánh giá có sự thay đổi tích cực như: cảm giác ngon miệng, táo bón, tiêu chảy… Kết luận: Nghiên cứu can thiệp dinh dưỡng trên đối tượng bệnh nhân ung thư lưỡi và sàn miệng đã cho thấy hiệu quả tích cực đối với cải thiện về tình trạng dinh dưỡng qua chỉ số nhân trắc và các triệu chứng lâm sàng của người bệnh.
#ung thư lưỡi #sàn miệng #can thiệp dinh dưỡng #tình trạng dinh dưỡng
CAN THIỆP DINH DƯỠNG TRƯỚC MỔ TẠI KHOA PHẪU THUẬT TIÊU HÓA, BỆNH VIỆN HỮU NGHỊ VIỆT ĐỨCCan thiệp dinh dưỡng người bệnh trước phẫu thuật có vai trò quan trọng trong phục hồi sau mổ và giảm biến chứng sau mổ. Mục tiêu: Đánh giá kết quả nuôi dưỡng người bệnh trước phẫu thuật.
Đối tượng và phương pháp nghiên cứu: 50 bệnh nhân có chỉ định phẫu thuật bụng, được nuôi dưỡng trước mổ tại Khoa Phẫu thuật tiêu hóa Bệnh viện Hữu nghị Việt Đức từ 03/2020 đến 06/2021.
Kết quả: Tỷ lệ nuôi dưỡng tĩnh mạch kết hợp đường ruột 74%, tỷ lệ nuôi dưỡng đường tĩnh mạch hoàn toàn 26 %; thời gian nuôi dưỡng trung bình 9,1 ngày; lượng Kcalo nuôi dưỡng trung bình là 1511 Kcalo/ngày. Nhóm nuôi dưỡng phối hợp đường tiêu hóa và đường tĩnh mạch có cân nặng trung bình (43,2 kg), albumin máu (36,5 gr/l), protein máu (66,4 gr/l), prealbumin máu (20,7 gr/l) đều tăng lên sau khi nuôi dưỡng: cân nặng trung bình 44,7 kg, albumin máu 40,4 gr/l, protein máu 71,4 gr/l, prealbunmin máu 23,9 gr/l. Nhóm nuôi dưỡng đường tĩnh mạch hoàn toàn có chỉ số prealbumin tăng từ 17,0 gr/l trước nuôi lên 19,9 gr/l sau khi nuôi, còn các chỉ số protein, albumin, cân nặng không có sự thay đổi trước và sau nuôi dưỡng. Tỷ lệ biến chứng sau mổ 22%, thời gian nằm viện trung bình sau mổ 12,1 ngày.
Kết luận: Can thiệp dinh dưỡng người bệnh trước phẫu thuật là kỹ thuật khả thi, an toàn và có hiệu quả trong việc nâng cao thể trạng bệnh nhân.
#Nuôi dưỡng trước mổ.
NÂNG CAO CHẤT LƯỢNG VÀ CHUẨN HÓA HOẠT ĐỘNG DINH DƯỠNG TIẾT CHẾ TRONG BỆNH VIỆN: BÀI HỌC TỪ THÀNH PHỐ HỒ CHÍ MINH Dinh dưỡng có vai trò quan trọng trong quá trình điều trị các bệnh. Chăm sóc dinh dưỡng tốt giúp giảm suy dinh dưỡng bệnh viên, giảm biến chứng nhiễm trùng bệnh viện, giảm thời gian phục hồi sức khỏe và thời gian lành vết thương, rút ngắn thời gian nằm viện, giảm chi phí và góp phần tích cực trong nâng cao chất lượng khám chữa bệnh và giảm tình trạng quá tải, nằm ghép trong các bệnh viện tuyến cuối tại Việt Nam hiện nay. Theo nhiều nghiên cứu dịch tễ tại nhiều quốc gia cho thấy có ít nhất 1/3 số bệnh nhân nhập viện bị suy dinh dưỡng và nếu không được can thiệp kịp thời thì tình trạng suy dinh dưỡng của bệnh nhân sẽ tiếp tục tăng. Tại TPHCM, suy dinh dưỡng bệnh viện cũng chiếm tỷ lệ 35-40%. Suy dinh dưỡng trong thời gian nằm viện không chỉ bắt nguồn từ nguyên nhân bệnh lý, phương pháp điều trị, thói quen ăn món ăn tự chế biến hoặc mua từ bên ngoài bệnh viện của người bệnh mà còn phụ thuộc sự quan tâm đầu tư đúng mức của lãnh đạo bệnh viện cho các hoạt động chuyên môn về dinh dưỡng tiết chế. Bộ tiêu chí Chất lượng bệnh viện Việt Nam do Bộ Y tế ban hành có vai trò quan trọng thúc đẩy các hoạt động dinh dưỡng tiết chế nhưng là một trong những nhóm tiêu chí khó thực hiện trong thời điểm hiện tại do nhiều nguyên nhân. Bài học kinh nghiệm từ thành phố Hồ Chí Minh trong việc nâng cao chất lượng và chuẩn hóa hoạt động dinh dưỡng tiết chế trong bệnh viện bao gồm một số yếu tố chính như: chính sách và kế hoạch hành động, vai trò của lãnh đạo các cấp và bệnh viện, thành lập các Khoa Dinh dưỡng Tiết chế; Đào tạo liên tục, bố trí và nâng cấp cơ sở vật chất, trang thiết bị, đề cao vai trò chuyên gia; Xây dựng các hướng dẫn chuyên môn như Quy trình can thiệp dinh dưỡng tiết chế, Bộ công cụ sàng lọc, đánh giá tình trạng dinh dưỡng và Bộ thực đơn dinh dưỡng bệnh lý.
#Can thiệp dinh dưỡng tiết chế #chính sách dinh dưỡng #tình trạng dinh dưỡng #thành phố Hồ Chí Minh
HIỆU QUẢ CAN THIỆP DINH DƯỠNG THEO CHƯƠNG TRÌNH ERAS TRÊN BỆNH NHÂN CẮT ĐOẠN DẠ DÀY DO UNG THƯThực hành nhịn ăn đến khi xuất hiện trung tiện theo quan điểm truyền thống đã được chứng minh không đem lại lợi ích và hiện nay đang dần được thay đổi. Nuôi dưỡng đường miệng sớm sau phẫu thuật được khuyến cáo trong hầu hết hướng dẫn của các Hiệp hội Dinh dưỡng lớn và các chương trình tăng cường hồi phục sau mổ trên thế giới. Chúng tôi tiến hành thử nghiệm lâm sàng có đối chứng trên 42 bệnh nhân cắt đoạn dạ dày do ung thư được chia ngẫu nhiên thành 2 nhóm. Nhóm can thiệp được nuôi dưỡng đường miệng sớm trong vòng 24-48 giờ sau phẫu thuật. Nhóm chứng được nuôi dưỡng theo thực hành thường quy của bệnh viện. Thời điểm khởi động ruột trung bình của nhóm can thiệp và nhóm chứng lần lượt là 35,4±27,9 giờ và 91,5± 29,9 giờ. Kết quả cho thấy nuôi dưỡng đường miệng sớm thúc đẩy sự phục hồi chức năng ruột: Thời điểm xuất hiện nhu động ruột (27,7±14,6 và 39,6±12,7 giờ; p=0,008 ) và trung tiện (51,0 ± 4,9 và 76,6±7,0 giờ) sớm hơn có ý nghĩa thống kê ở nhóm can thiệp so với nhóm chứng (p=0,008 và p=0,0047). Tỷ lệ các triệu chứng tiêu hóa(27,3% và 36,4%) và biến chứng sau phẫu thuật (4,5% và 4,5%), giữa 2 nhóm không có sự khác biệt có ý nghĩa thống kê, không ghi nhận trường hợp nào có rò bục miệng nối. Ngoài ra, nồng độ Prealbumin máu được cải thiện có ý nghĩa thống kê ở nhóm can thiệp (22,5 ± 0,62 và 16,5 ± 0,71 g/l; p=0,0021).
#nuôi dưỡng đường miệng sớm #nhịn ăn sau phẫu thuật #cắt đoạn dạ dày #tăng cường hồi phục sau mổ #ERAS
Thay đổi kiến thức về chăm sóc dinh dưỡng của bà mẹ có con dưới 24 tháng tuổi tại Khoa Nhi Bệnh viện Đa khoa Xanh Pôn sau giáo dục sức khỏeMục tiêu: Đánh giá sự thay đổi kiến thức chăm sóc dinh dưỡng cho trẻ dưới 24 tháng tuổi của bà mẹ tại khoa Nhi Bệnh viện Đa khoa Xanh Pôn sau giáo dục sức khỏe.
Đối tượng và phương pháp nghiên cứu: Nghiên cứu can thiệp giáo dục sức khoẻ có so sánh trước sau tiến hành trên 65 bà mẹ có con dưới 24 tháng tuổi tại khoa Nhi Bệnh viện Đa khoa Xanh Pôn từ tháng 3 đến tháng 5 năm 2022. Mỗi đối tượng nghiên cứu được phỏng vấn qua 2 lần. Lần 1: Phỏng vấn trực tiếp bà mẹ khi trẻ vào viện trong khoảng thời gian 24 giờ bằng bộ công cụ chuẩn bị trước. Lần 2: Phỏng vấn qua điện thoại các bà mẹ sau khi can thiệp giáo dục sức khỏe 1 tháng bằng bộ công cụ giống lần 1.
Kết quả: Sau can thiệp giáo dục sức khỏe, kiến thức chăm sóc dinh dưỡng của bà mẹ có con dưới 24 tháng tuổi tại khoa Nhi Bệnh viện Đa khoa Xanh Pôn được cải thiện đáng kể. Sau can thiệp 1 tháng: Bà mẹ có kiến thức đúng là 80 %.
Kết luận: Kiến thức của bà mẹ tại khoa Nhi Bệnh viện Đa khoa Xanh Pôn về chăm sóc dinh dưỡng cho trẻ dưới 24 tháng tuổi được cải thiện đáng kể sau can thiệp 1 tháng. Điều dưỡng viên cần tiếp tục tăng cường giáo dục sức khỏe, hỗ trợ kiến thức còn thiếu cho bà mẹ về dinh dưỡng cho con dưới 24 tháng tuổi tạiBệnh viện Đa khoa Xanh Pôn.
#Kiến thức dinh dưỡng #trẻ dưới 24 tháng tuổi #can thiệp giáo dục sức khỏe